[Điểm báo] ASPIRIN LIỀU THẤP TRONG DỰ PHÒNG TIỀN SẢN GIẬT: THỰC HÀNH HƯỚNG DẪN CỦA NICE Ở THÁI LAN

Lượt xem: 2194

[Điểm báo]

ASPIRIN LIỀU THẤP TRONG DỰ PHÒNG TIỀN SẢN GIẬT: THỰC HÀNH HƯỚNG DẪN CỦA NICE Ở THÁI LAN

Tác giả: Manaphat Suksai, Alan Geater, Thitima Suntharasaj, Chitkasaem Suwanrath, Kla Charernjiratragul và Noppasin Khwankaew.

Tóm tắt:

🍀 Tiền sản giật là một trong những biến chứng sản khoa gây tử vong mẹ hàng đầu trên toàn thế giới, đặc biệt ở các nước thu nhập thấp, được chẩn đoán khi sản phụ khởi phát tăng huyết áp kèm protein niệu từ sau tuần 20 thai kì. Trong những năm qua, aspirin ngày càng được sử dụng nhiều hơn để dự phòng tiền sản giật (TSG). Cơ chế tác dụng của aspirin trong dự phòng TSG vẫn chưa được hiểu rõ, nhưng giả thuyết hàng đầu là tác dụng kháng viêm và chống huyết khối của aspirin giúp làm giảm hậu quả của tổn thương nội mô gây ra bởi sự suy giảm quá trình xâm nhập của nguyên bào nuôi – sinh lý bệnh cơ bản trong TSG.

🍀 Năm 2010, Viện Y tế và Chất lượng Điều trị Quốc gia Anh (National Institute for Health and Care Excellence - NICE) đã ban hành một hướng dẫn để giảm tỉ lệ TSG; theo đó, những thai phụ với một hay nhiều yếu tố nguy cơ cao: bệnh tăng huyết áp ở thai kì trước, bệnh thận mạn tính, bệnh tự miễn, đái tháo đường hay tăng huyết áp mạn và hai hay nhiều yếu tố nguy cơ trung bình: mang thai lần đầu, tuồi mẹ >= 40, khoảng cách giữa 2 lần mang thai > 10 năm, BMI >= 35 ở lần khám đầu tiên, tiền sử gia đình có TSG hoặc đa thai được khuyến cáo nên dùng Aspirin 75mg/ ngày từ 12 tuần cho tới lúc sinh để dự phòng TSG.

Kết quả:

Nghiên cứu hồi cứu ở Thái Lan so sánh kết cục thai kì của 2552 thai phụ được sàng lọc TSG thường quy và điều trị dự phòng bằng Aspirin 81mg/ ngày nếu kết quả sàng lọc dương tính trong thời gian 11/2016 – 4/2020 với 2783 thai phụ sinh trước khi có chương trình sàng lọc từ 01/2010 đến 12/2015

✍️ Tỉ lệ sàng lọc dương tính là 8.3%. Trong đó, 77.4% thai phụ được dự phòng bằng aspirin từ 13.5 tuần (12-15) đến khoảng 34.7 tuần (34-36).

✍️ Trong nhóm dùng aspirin: không có trường hợp nào bị nhau bong non nhưng có đến 4 trường hợp (0.17%) trong nhóm chứng. Lượng máu mất sau sinh của nhóm dùng aspirin cao hơn đáng kể so với nhóm không dùng (lần lượt là 400 [250-500] mL và 300 [200-400] mL, p < 0.001), tuy nhiên, tỉ lệ băng huyết sau sinh khác nhau không có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm (lần lượt là 7.1% và 4.8%) (p = 0.19).

✍️ Sau khi thực hiện chương trình dự phòng, tỉ lệ TSG chỉ giảm nhẹ từ 4.3% xuống 3.7%, p = 0.27. Các kết cục thai nhi do mẹ bị biến chứng của TSG không khác nhau giữa nhóm có sàng lọc và không sàng lọc.

Kết luận:

👉 Hướng dẫn sàng lọc và dự phòng TSG của NICE có thể không phải là chiến lược hiệu quả để phòng ngừa TSG trong quần thể dân sốThái Lan (Châu Á). Trong thực hành lâm sàng, việc kết hợp các dấu ấn sinh lý và hóa sinh để xác định các thai phụ có nguy cơ xuất hiện TSG đồng thời tăng liều aspirin có thể đưa đến kết cục tốt hơn.

 

Nguồn:https://obgyn.onlinelibrary.wiley.com/.../jog.15343...

Lược dịch: BS. Phan Thị Minh Ý, BS. Nguyễn Thị Hoàng Vân.

Hiệu đính: BS. Hà Tố Nguyên